ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

Chào mừng quý bạn đọc đến với Trang thông tin điện tử Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Điện Biên
  • Chính sách tái định cư và những giải pháp thực hiện.
  • Thời gian đăng: 05/03/2015 08:00:00 AM
  • 1. Chính sách tái định cư khi nhà nước thu hồi đất Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đầu tư xây dựng các công trình, các dự án vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, đồng thời thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để đảm bảo ổn định đời sống và sản xuất cho người dân có đất bị thu hồi, người dân có điều kiện sinh sống, sản xuất kinh doanh bằng và tốt hơn trước, đó là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Để thực hiện chủ trương đó, Luật Đất đai năm 2013 đã có những quy định cụ thể về chính sách bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế xã hội; nhằm cụ thể chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người dân có đất bị thu hồi, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản hướng dẫn về việc thực hiện giá đất, giá nhà, tiền tái định cư áp dụng đối với người có đất bị nhà nước thu hồi; UBND tỉnh Điện Biên cũng có những quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo phân cấp của Luật Đất đai và Nghị định của Chính phủ; - Theo quy định của Luật đất đai năm 2013, khi Nhà nước thu hồi đất ở của các hộ gia đình, cá nhân, nếu các hộ gia đình, cá nhân đó có nhu cầu tái định cư thì được bố trí tái định cư theo quy định tại Điều 79, cụ thể là: “ 1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường như sau: a) Trường hợp không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở; trường hợp không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở thì Nhà nước bồi thường bằng tiền; b) Trường hợp còn đất ở, nhà ở trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì được xem xét để bồi thường bằng đất ở. 2. Hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở phải di chuyển chỗ ở mà không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất”. - Mặt khác, Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định việc lập và thực hiện dự án tái định cư tại Điều 85 như sau: “1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất. 2. Khu tái định cư tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. 3. Việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư”. - Đối với các trường hợp bị thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở được quy định cụ thể tại Điều 86, Luật đất đai 2013, như sau: “1. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện giao trách nhiệm bố trí tái định cư phải thông báo cho người có đất ở thu hồi thuộc đối tượng phải di chuyển chỗ ở về dự kiến phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai ít nhất là 15 ngày tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại nơi tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phương án bố trí tái định cư. Nội dung thông báo gồm địa điểm, quy mô quỹ đất, quỹ nhà tái định cư, thiết kế, diện tích từng lô đất, căn hộ, giá đất, giá nhà tái định cư; dự kiến bố trí tái định cư cho người có đất thu hồi. 2. Người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Ưu tiên vị trí thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu hồi là người có công với cách mạng. Phương án bố trí tái định cư đã được phê duyệt phải được công bố công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và tại nơi tái định cư. 3. Giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư, giá bán nhà ở tái định cư do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. 4. Trường hợp người có đất thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu”. - Trên cơ sở các quy định của Luật đất đai năm 2013, Chính phủ đã có những quy định cụ thể về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014, như sau: + Việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở quy định tại Điều 79 của Luật Đất đai được thực hiện theo quy định tại Điều 6, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, cụ thể là: “1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam khi Nhà nước thu hồi đất ở mà có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì việc bồi thường về đất được thực hiện như sau: a) Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư; b) Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà hộ gia đình, cá nhân còn đất ở, nhà ở khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì được xem xét để bồi thường bằng đất ở. 2. Trường hợp trong hộ gia đình quy định tại Khoản 1 Điều này mà trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một (01) thửa đất ở thu hồi thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất ở, nhà ở tái định cư và tình hình thực tế tại địa phương quyết định mức đất ở, nhà ở tái định cư cho từng hộ gia đình. 3. Hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này mà không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc bằng nhà ở tái định cư thi được Nhà nước bồi thường bằng tiền. 4. Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất. Giá bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở; giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định”. + Việc lập và thực hiện dự án tái định cư quy định tại Điều 85 của Luật Đất đai được thực hiện theo quy định tại Điều 26, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, như sau: “1. Dự án tái định cư được lập và phê duyệt độc lập với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng phải bảo đảm có đất ở, nhà ở tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất. 2. Việc lập dự án tái định cư, lựa chọn chủ đầu tư thực hiện theo quy định của pháp luật về phát triển và quản lý nhà ở tái định cư và phải bảo đảm các quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 69 của Luật Đất đai. 3. Khu tái định cư được lập cho một hoặc nhiều dự án; nhà ở, đất ở trong khu tái định cư được bố trí theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích khác nhau phù hợp với các mức bồi thường và khả năng chi trả của người được tái định cư. 4. Đối với dự án khu tái định cư tập trung có phân kỳ xây dựng theo các dự án thành phần thì tiến độ thu hồi đất và hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư được thực hiện theo tiến độ của từng dự án thành phần nhưng các công trình cơ sở hạ tầng của từng dự án thành phần trong khu tái định cư phải bảo đảm kết nối theo đúng quy hoạch chi tiết đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. 5. Việc bảo đảm kinh phí để thực hiện dự án tái định cư thực hiện theo quy định tại Điều 32 của Nghị định này”. + Theo quy định tại Điều 30, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP thì Quỹ phát triển đất thực hiện ứng vốn cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch để giao đất, cho thuê đất thực hiện theo Quy chế mẫu về quản lý, sử dụng Quỹ phát triển đất. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập dự toán chi phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của từng dự án. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm bảo đảm kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; Như vậy, theo các quy định của pháp luật đất đai hiện hành, trách nhiệm tổ chức thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư khi thu hồi đất và Uỷ ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm lập và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng các khu tái định cư tập trung, các điểm tái định cư để bảo đảm việc bố trí tái định cư cho các hộ gia đình cá nhân bị thu hồi đất để thực hiện các dự án trên địa bàn khi phải di chuyển chỗ ở; Việc chủ động và chuẩn bị tốt quỹ đất tái định cư, công tác đào tạo, chuyển đổi, tạo việc làm để ổn định đời sống cho người dân có đất bị thu hồi sẽ góp phần ổn định trật tự xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ hội và môi trường sạch để thu hút các dự án đầu tư, hạn chế tối đa được những khiếu nại, khiếu kiện không đáng có của người bị thu hồi đất. 2. Những vướng mắc trong quá trình thực hiện Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, giải quyết việc chuyển đổi nghề nghiệp, tạo công ăn việc làm cho người dân có đất bị thu hồi sẽ phát sinh một số vướng mắc như sau: - Về giá đất:Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, việc định giá đất cụ thể được xác định trên cơ sở "giá đất phổ biến trên thị trường", tuy nhiên, để xác định một cách đầy đủ giá đất phổ biến trên thị trường trong điều kiện bình thường là việc rất khó khăn khi trên địa bàn tỉnh chưa có một thị trường bất động sản thực sự hoạt động công khai minh bạch; các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc theo dõi, giám sát và tổng hợp được đầy đủ chính xác và kịp thời các thông tin giao dịch về quyền sử dụng đất trên từng địa bàn, nhất là đối với đất ở là rất khó khăn. Đối với đất nông nghiệp những giao dịch về chuyển quyền sử dụng giữa những người sản xuất nông nghiệp với nhau là rất ít, không phổ biến, nên việc xác định giá đất cụ thể để áp dụng trong bồi thường là rất khó xác định được một cách đầy đủ và đáp ứng được sự thỏa mãn giữa Nhà nước và người có đất bị thu hồi. - Về chính sách hỗ trợ cho người dân để xác định, lựa chọn việc làm, lựa chọn hướng chuyển đổi nghề nghiệp, việc tổ chức đào tạo, cho học nghề đối với người dân bị thu hồi đất là rất khó; trên thực tế, nhiều hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất sản xuất không thực hiện được việc chuyển đổi ngành nghề, nhiều hộ gia đình, địa phương còn lúng túng trong việc xác định, lựa chọn ngành nghề để chuyển đổi. Trong khi các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn còn rất hạn chế trong việc tiếp nhận, tuyển dụng số lao động của địa phương, nhất là các đối tượng bị thu hồi đất để thực hiện dự án khi dự án đi vào hoạt động; bên cạnh đó, số người trong độ tuổi lao động bị thu hồi đất phần lớn là lao động phổ thông, trình độ kỹ thuật thấp không đáp ứng được nhu cầu lao động trong môi trường công nghiệp hoặc lao động kỹ thuật cao; - Mặt khác, theo quy định của Luật Đất đai 2013 thì UBND tỉnh và UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở hoặc đất ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở. Tuy nhiên, trong công tác lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm của các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh chưa xác định được một cách cụ thể số hộ gia đình, cá nhân cần phải bố trí tái định cư thuộc các dự án thực hiện trong năm kế hoạch và kế hoạch chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất sản xuất. Công tác lập quy hoạch và tổ chức đầu tư xây dựng các khu tái định cư còn rất hạn chế về quỹ đất về nguồn vốn đầu tư, nhiều dự án, chủ đầu tư chưa chủ động và coi trọng trong công tác tái định cư. Việc thiếu quỹ đất, quỹ nhà ở tái định cư, thiếu kinh phí và chưa giao nhiệm vụ cụ thể cho tổ chức có chức năng, nhiệm vụ trong việc xây dựng khu, điểm tái định cư, việc xác định cơ chế tài chính, xác định nguồn vốn để xây dựng tái định cư. Chính vì thiếu quỹ nhà ở, quỹ đất ở sẵn có để bố trí tái định cư nên việc thu hồi đất, việc thực hiện sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng thường bị kéo dài, người dân bị thu hồi đất gặp rất nhiều khó khăn trong việc ổn định đời sống và phát triển sản xuất kinh doanh cũng như sự đồng thuận, ủng hộ trong công tác giải phóng mặt bằng; đây cũng là nguyên nhân dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện của người có đất bị thu hồi; - Công tác tổ chức thực hiện tại một số địa phương chưa được chuyên môn hóa cao, có địa phương vẫn thành lập Hội đồng bồi thường để thực hiện việc bồi thường giải phóng mặt bằng các dự án, trong khi đã thành lập Tổ chức phát triển quỹ đất nhưng chưa được giao thực hiện các nhiệm vụ theo chức năng. Đối với các cán bộ kiêm nhiệm trong Hội đồng bồi thường được thành lập khi có dự án thu hồi đất trên địa bàn, chưa bảo đảm về trình độ chuyên môn và chưa được đào tạo và bồi dưỡng chuyên sâu để thực hiện các chính sách về đất đai, ... do đó dẫn đến việc thực hiện sách bồi thường và giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất gặp rất nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ của dự án. 3. Một số giải pháp thực hiện Công tác định giá đất, giá đất cụ thể trên địa bàn tỉnh Điện Biên cần phải có đơn vị tư vấn độc lập, có đầy đủ chức năng và các điều kiện để hành nghề tư vấn xác định giá đất theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành thực hiện để đảm bảo việc tư vấn giá đất được phản ánh một cách khách quan, trung thực và tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp định giá đất theo quy định tại điều 112 của Luật đất đai năm 2013. Phải xác định được nguồn vốn để thực hiện việc định giá đất cụ thể cho từng dự án; Công tác lập quy hoạch xây dựng các khu, điểm tái định cư để phục vụ các dự án đầu tư, dự án phát triển trên địa bàn tỉnh, huyện cần được thực hiện trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện, trên cơ sở các dự án đã được ghi vốn đầu tư, được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua kế hoạch thu hồi đất để thực hiện dự án. Cần xác định số hộ cần phải bố trí tái định cư và nhu cầu tái định cư về đất ở, về nhà ở của các hộ bị thu hồi đất trong kế hoạch sử dụng đất của các dự án để chủ động xây dựng các khu, điểm tái định cư hoàn chỉnh, đồng bộ về hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án được triển khai và là điều kiện cần thiết trước khi Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất; Chủ động trong việc bố trí nguồn vốn để đầu tư xây dựng các khu, điểm tái định cư tập trung, hoàn thiện đồng bộ về cơ sở hạ tầng, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng để đáp ứng nhu cầu tái định cư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh, huyện; Công tác đào tạo, chuyển đổi ngành nghề, tạo việc làm cho người có đất bị thu hồi cần được quy hoạch một cách dài hạn và có kế hoạch thực hiện cụ thể, với sự tham gia có trách nhiệm của các ngành, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị, xã hội đối với người lao động sau khi bị thuhồi đất sản xuất. Công tác này phải được thực hiện thường xuyên, liên tục; Trong công tác quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quy hoạch phát triển đô thị, cần có chính sách giải quyết tốt vấn đề đất ở, nhà ở, tạo việc làm cho người có đất bị thu hồi để ổn định đời sống và phát triển kinh tế - xã hội; có quy hoạch và cơ chế bảo vệ vững chắc diện tích đất trồng cây lương thực, nhất là diện tích đất chuyên trồng lúa nước; Cần ban hành cơ chế chính sách trong việc bố trí, sử dụng nguồn vốn đầu tư, đơn vị quản lý các khu đất ở, nhà ở tái định cư phục vụ cho nhu cầu tái định cư của các dự án. Quy định bắt buộc về trách nhiệm của các chủ đầu tư trong việc bố trí nguồn vốn xây dựng khu tái định cư; đồng thời có chính sách khuyến khích các chủ đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất tham gia xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đất tái định cư và nhà ở tái định cư nhằm ngày càng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân tái định cư và đưa pháp luật đất đai vào đời sống xã hội./.
  • Tác giả: Phạm Thanh Lâm
  • Hội thảo khoa học và tập huấn “Sử dụng cát nghiền thay thế cát tự nhiên trong sản xuất vữa và bên tông cho các công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh Điện Biên”
  • Công khai Kế hoạch đấu giá quyền khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Điện Biên
  • THU GOM, VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT HẾT HẠN VÀ BAO GÓI THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT SAU SỬ DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN NĂM 2021
  • Phê duyệt 33 khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản
  • Tham gia ý kiến vào tờ trình đề nghị ban hành Nghị quyết Quy định điều kiện về diện tích tối thiểu để đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ trên địa bàn tỉnh
  • Đề nghị chấp thuận danh mục dự án cần thu hồi đất và dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ vào các mục đích khác năm 2022 trên địa bàn tỉnh Điện Biên
  • Điều chỉnh thời gian cách ly y tế phòng, chống dịch COVID-19 đối với F1
  • Ghi nhận ca mắc Covid-19 ngoài cộng đồng tại Mường Nhé
  • Hội thảo “Truyền thông, nâng cao nhận thức về khai thác bền vững tài nguyên nước và bảo vệ môi trường nước xuyên biên giới” khu vực phía Bắc tại tỉnh Lào Cai
  • Kiểm tra, đánh giá tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị 03/CT-BTNMT ngày 10/10/2017 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
  • Trang: 
  • 231-240 of 709<  ...  19  20  21  22  23  24  25  26  27  28  ...  >
  • Chứng nhận Tín nhiệm mạng
  • CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG TỈNH ĐIỆN BIÊN
  • Trưởng Ban Biên tập: Ông Vũ Ngọc Vương - Giám đốc Sở
  • Địa chỉ: Số 315 - Đường Võ Nguyên Giáp - Phường Him Lam - Thành phố Điện Biên Phủ - Tỉnh Điện Biên
  • Điện thoại: 0215.3810.093 Fax: 0215.3810.291 Email: stnmt@dienbien.gov.vn
  • Giấy phép thiết lập trang tin điện tử trên Internet số: 378/GP-STTTT Ngày 31 tháng 3 năm 2021 của Sở Thông tin và Truyền thông Điện Biên
  • (Bản quyền nội dung thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Điện Biên. Ghi rõ nguồn "http://stnmt.dienbien.gov.vn" khi sử dụng lại thông tin)
  • Thiết kế bởi - Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông tỉnh Điện Biên